Google search engine
HomeTIN TỨCTin quốc tếTheo dòng lịch sử kỷ lục chạy 5000m nữ

Theo dòng lịch sử kỷ lục chạy 5000m nữ

Trong lịch sử điền kinh, 5000m là một cự ly thú vị với nhiều kỷ lục được lập. Không ít tên tuổi lớn của làng điền kinh nói chung và làng chạy dài, chạy marathon nói riêng, đã ghi dấu ấn bằng những kỷ lục thế giới ở cự ly này. Cùng VnRun ngược dòng lịch sử điểm lại những nét chính về các kỷ lục 5000m dành cho nữ.

Kỷ lục chính thức đầu tiên của Liên đoàn Điền kinh Thế giới (IAAF) ở cự ly 5000m được VĐV Paula Fudge của Anh thiết lập vào tháng 9 năm 1981 với thông số 15 phút 14 giây 51 tại Knarvik, Na Uy.

Chỉ 6 tháng sau, tháng 3 năm 1982, Anne Audain của New Zealand lập kỷ lục mới với thành tích 15 phút 13 giây 22 ở lần ra mắt cự ly này nhưng kỷ lục bị phá chỉ ba tháng sau khi Mary Tabb của Hoa Kỳ kết thúc 5000m chỉ sau 15 phút 08 giây 26 ở Eugene, bang Oregon, Hoa Kỳ.

Tháng 1 năm 1984, chân chạy 17 tuổi Zola Budd đạt thành tích 15 phút 01 giây 83 ở Stellenbosch, Nam Phi nhưng không được IAAF công nhận kỷ lục chính thức vì lý do khá kỳ cục cười: Nam Phi bị tách biệt khỏi các giải điền kinh quốc tế do tình trạng phân biệt chủng tộc của nước này. Nhưng rồi thành tích này bị che khuất chỉ 5 tháng sau đó khi kỷ lục gia 10.000m Ingrid Kristiansen của Na Uy chạy 5000m chỉ với 14 phút 58 giây 89 ở Oslo – cùng năm này, Ingrid Kristiansen vô địch 2 giải marathon ở Houston và London. 

Và sang năm năm 1985, Zola Budd lúc này khoác áo nước Anh chính thức giành lại kỷ lục thế giới với thành tích 14 phút 48 giây 07.

Cuộc tranh giành kỷ lục thế giới diễn ra kịch tính giữa cặp đôi này. Kristiansen vượt Budd 11 giây vào tháng 8 năm 1986 bằng thành tích 14 phút 37 giây 33 ở Stockholm, Thụy Điển. Năm đó, bà cũng vô địch Boston Marathon và lập kỷ lục thế giới mới ở nội dung 10.000m (30 phút 13 giây 3), phá kỷ lục do chính mình lập năm 1984 tới 46 giây.

Kỷ lục 5000m của Kristiansen được giữ trong 9 năm tiếp theo và chỉ bị chân chạy người Bồ Đào Nha Maria Fernanda Moreira Ribeiro phá vào ngày 22 tháng 7 năm 1995 với thành tích 14 phút 36 giây 45 ở Hechtel. Năm sau đó, Maria giành HCV 10.000m Thế vận hội Mùa hè Atlanta 1996.

Năm 1998, chân chạy đường dài Trung Quốc Dong Yanmei vượt xa Ribeiro 5 giây khi đạt thành tích 14 phút 31 giây 27 tại Đại hội Thể thao Quốc gia Trung Quốc nhưng vẻn vẹn hai ngày sau, kỷ lục đó bị hân chạy đồng hương Jiang Bo phá với thành tích 14 phút 28 giây 09 trong lượt chạy chung kết 5000m.

Kỷ lục này được duy trì cho đến năm 2004 khi Elvan Abeylegesse đạt thành tích 14 phút 24 giây 68 tại Bergen, Na Uy, trở thành vận động viên Thổ Nhĩ Kỳ đầu tiên lập kỷ lục thế giới. Cô giữ kỷ lục đó trong hai năm cho đến khi Ethiopia thể hiện ưu thế thống trị tuyệt đối cự ly 5000m.

Ngày 3 tháng 6 năm 2006, Meseret Defar ghi dấu ấn bằng thành tích 14 phút 24 giây 53 tại New York, đạt thông số đáng kinh ngạc là 61, 6 giây ở vòng đua cuối cùng. Năm sau, cô tiếp tục hạ thấp kỷ lục xuống 14 phút 16 giây 63.

Chỉ một năm sau, người đồng hương Tirunesh Dibaba đã lập kỷ lục mới 14 phút 11 giây 15 ở Oslo, Na Uy và kỷ lục này tồn tại suốt 12 năm. Mãi đến năm 2020, Letesenbet Gidey mới phá được bằng thông số 14 phút 06 giây 62 tại giải NN Valencia World Record Day, tiếp tục phá kỷ lục 10.000m và bán marathon vào năm sau – những kỷ lục vẫn đứng vững cho đến thời điểm này.

Đà thống trị của Ethiopia ở cự ly 5000m chỉ bị cắt ngang vào ba năm sau với sự nổi lên của chân chạy người Kenya Faith Kipyegon. Cô đạt thành tích 14 phút 05 giây 20 tại Paris Diamond League một tuần sau khi phá kỷ lục thế giới ở nội dung 1500 mét nữ.

Nhưng niềm vui của người Kenya ngắn chẳng tày gang, ngày 17 tháng 9 năm 2023, Gudaf Tsegay tái xác lập sự thống trị của Ethiopia với thành tích 14 phút 00 giây 21 tại Monaco Diamond League. Và với chiều sâu của các tài năng nữ người Ethiopia, nước này có lẽ còn thống trị cự ly 5000m nữ trong một thời gian dài nữa.

(VnRun tổng hợp)

RELATED ARTICLES

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

- Advertisment -
Google search engine

Most Popular

Recent Comments